-
-
-
Tổng tiền thanh toán:
-
2019-05-27
Viết bởi CÔNG TY CỔ PHẦN CÔNG NGHỆ 111 VIỆT NAM / 0 bình luận
TP - “Tàu chỉ quay vào bờ khi cá đầy khoang. Nếu vào bờ thì cũng chỉ ở nhà một ngày để cho tàu “ăn” no đá, bốc vác khay cá, may vá lại lưới, kiểm tra máy móc, rồi tranh thủ nhổ neo vươn khơi bám biển. Dân vùng biển khổ, vất vả từ cổ chí kim vậy đó!”, thuyền trưởng Trần Văn Định nói. Những chuyến ra khơi của ngư dân làng chài có khi trở về tay trắng, có khi cá mực đầy khoang. Bấp bênh và mong manh như biển… Gần 10 ngày hóa thân thành ngư dân, chúng tôi chiêm nghiệm cuộc sống trên biển của ngư dân, và coi họ như những “chiến binh” biển cả.
Kỳ 1: Ra khơi
Sau nhiều lần liên hệ và chờ đợi, cuối cùng chúng tôi cũng nhận được cuộc điện thoại từ ông Trần Quang Vệ - Bí thư Đảng ủy xã Quỳnh Long, huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An). Do chuẩn bị sẵn sàng từ trước nên hành lý mang theo được gói gọn trong ba lô.
Theo sự sắp xếp của ông Vệ, chúng tôi sẽ lên tàu cá NA 90567 TS. Đây là con tàu đánh cá bằng lưới vây, khu vực hoạt động tại ngư trường Vịnh Bắc Bộ. “Tàu đánh bắt xa bờ nên chỉ về neo đậu tại bến một ngày, các chú ăn trưa, nghỉ ngơi ít phút rồi lên đường”, ông Trần Quang Vệ nói. Thời điểm này đang là đầu tháng, ngư dân phải tận dụng thời gian ra khơi vì đến giữa tháng, trăng lên, cá không theo đèn. Lúc đó, sẽ là thời gian nghỉ ngơi, đoàn viên bên gia đình của ngư dân.
Đầu buổi chiều, chúng tôi có mặt tại cảng cá Lạch Quèn (xã Quỳnh Thuận, huyện Quỳnh Lưu). Tàu cá NA 90567 TS đang neo đậu tại bến, hàng trăm cây đá lạnh được các thuyền viên cho vào máy xay nhỏ rồi vận chuyển vào khoang tàu. Nắng nóng oi bức của tiết trời mùa hạ khiến cho những thuyền viên “lấy mồ hôi làm nước tắm”. Nhiều thuyền viên cứ thế đánh trần phong phanh trước gió, lộ rõ làn da ngăm đen, cơ thể vạm vỡ của dân vùng biển. Sóng gió đã tôi luyện cho họ sức chịu đựng trước thời tiết khắc nghiệt.
Trò chuyện với chúng tôi mấy câu rồi những thuyền viên lại tất bật với công việc của mình. Bước lên boong tàu, ông Vệ giới thiệu thuyền trưởng Trần Văn Định và không quên dặn dò, chúc một chuyến đi tốt lành. Lúc này, tôi chú ý tới người thuyền trưởng có dáng người mảnh khảnh, nhưng từ thần thái của anh cho người đối diện cảm thấy sự tự tin, yên tâm. Không muốn làm gián đoạn công việc của thuyền trưởng Định, chúng tôi dạo các khoang tàu, xem hoạt động xung quanh. Như được lập trình sẵn, mỗi thuyền viên thực hiện công việc nhịp nhàng: người xếp đá vào khoang, kẻ cuốn dây câu, kiểm tra đồ đạc trước khi tàu rời bến.
Tàu thuyền đánh cá trú ngụ tại cảng Lạch Quèn.
Trên bờ, những người vợ, người con chuẩn bị nhu yếu phẩm như thịt, rau củ quả, đặc biệt là nước sạch đủ để cho chồng con họ sinh hoạt, ăn uống trong suốt thời gian lênh đênh trên biển. Tiễn chồng một chuyến ra khơi, mãi nguyên cảm giác thấp thỏm, hồi hộp, chờ đợi quen thuộc những người vợ vùng biển. Chồng ra khơi đánh cá, kiếm nguồn thu nhập trang trải cuộc sống gia đình, vợ ở nhà chăm nom con cái, vườn tược, chợ búa. Thời điểm họ ở bên nhau là quãng thời gian đợi lúc trăng sáng trong tháng. Bàn tay họ thoăn thoắt nhặt nhạnh từng cọng rau, sắp xếp từng bao củ quả vào khoang bếp trên thuyền. Xong việc, những người phụ nữ lại kiểm tra thùng đựng nước sạch xem nước đã đầy đổ thùng chưa; chăn gối có rách, có sạch sẽ, gọn gàng không.
Thấy chúng tôi chăm chú nhìn, thuyền trưởng Định quay lại nói: “Nghề đánh cá bằng lưới vây như tàu của anh em tôi thì vất vả lắm. Do đặc thù là dùng đèn được thắp sáng trên tàu để nhử cá nên phải tận dụng thời gian trăng chưa lên. Chứ trăng lên, cá tỏa khắp nơi, dùng đèn nhử không hiệu quả. Tàu chỉ quay vào bờ khi cá đầy khoang, nhu yếu phẩm, nước sạch cạn kiệt, còn lại thì bám biển. Nếu vào bờ thì cũng chỉ ở nhà một ngày để cho tàu “ăn” no đá, bốc vác khay cá, may vá lại lưới, kiểm tra máy móc, nói chung tranh thủ làm quần quật không nghỉ. Dân vùng biển khổ, vất vả từ cổ chí kim vậy đó!”.